Nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính
Việt Nam đang đối mặt với áp lực lớn từ phát thải khí nhà kính, đặc biệt ở hai đô thị lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh - nơi rác thải, giao thông...
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, Việt Nam đã đưa ra cam kết mạnh mẽ tại COP26 là đưa phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Để hiện thực hóa mục tiêu đầy thách thức này, cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân phải hành động quyết liệt và đồng bộ, từ chính sách vĩ mô đến những thay đổi nhỏ bé trong đời sống thường nhật.
Áp lực phát thải lớn
Theo tính toán, hiện lượng khí thải nhà kính trên toàn lãnh thổ Việt Nam có thể đạt mức 90 triệu tấn và sẽ tiếp tục tăng nhanh trong những năm tiếp theo, tạo áp lực lớn đến mục tiêu giảm phát thải của quốc gia. Trong bức tranh đó, năng lượng là “thủ phạm” lớn nhất, chiếm hơn 60% tổng phát thải - chủ yếu từ nhiệt điện than, giao thông và sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp cũng góp phần đáng kể, chiếm khoảng 25%, với lượng khí metan từ canh tác lúa nước và chăn nuôi. Chất thải rắn chiếm khoảng 8%, còn lại là từ công nghiệp chế biến, chế tạo (xi măng, thép, hóa chất).
Không thể phủ nhận, hai đô thị lớn (Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) là những “điểm nóng” của phát thải khí nhà kính. Theo Giám đốc Trung tâm Kỹ thuật nông nghiệp và môi trường Hà Nội Ngô Thái Nam, mỗi ngày toàn thành phố phát sinh 7.400 - 7.600 tấn rác thải sinh hoạt, khoảng 42% lượng rác vẫn xử lý bằng chôn lấp, khiến lượng khí metan thoát ra môi trường nhiều. Ngoài ra, Hà Nội hiện có gần 8 triệu phương tiện cá nhân, trong đó có khoảng 6,5 triệu xe máy và gần 1,5 triệu xe ô tô, gây ra tình trạng ô nhiễm không khí kéo dài.
Tương tự, tại thành phố Hồ Chí Minh - trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, có nguồn phát thải khí nhà kính lớn. Theo thống kê, trung bình hằng năm, toàn thành phố tiêu thụ tới 20% tổng sản lượng điện quốc gia và phát sinh gần 10.000 tấn rác/ngày, tương đương gần 40% cả nước. Cùng với đó là hơn 9 triệu phương tiện giao thông, chủ yếu chạy xăng, khiến thành phố Hồ Chí Minh phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm không khí và ùn tắc giao thông thường xuyên, kéo theo lượng khí thải khổng lồ. Cụ thể, xe máy chiếm khoảng 30% nguồn phát thải khí NO, 90% khí CO và chiếm tới 40% nguồn phát thải bụi, 31% phát thải bụi siêu mịn.
Thực tế, người dân tại Hà Nội cảm nhận rõ tác động này đến môi trường và sức khỏe cộng đồng nhưng chưa tìm được giải pháp tối ưu.
Anh Vũ Thế Năng ở phường Từ Liêm (Hà Nội) cho rằng: Với tốc độ đô thị hóa cao, hoạt động sản xuất công nghiệp lớn, phương tiện giao thông ngày càng nhiều, chất lượng không khí đô thị có xu hướng xấu đi.
PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh: Hai đô thị lớn là nơi tập trung dày đặc dân cư, công nghiệp, dịch vụ và giao thông. Đây là những “điểm nóng” phát thải. Nếu không có biện pháp mạnh mẽ, Việt Nam khó đạt mục tiêu giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Theo các chuyên gia môi trường, đằng sau những con số phát thải khổng lồ là hàng loạt nguyên nhân. Trước hết, Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào năng lượng hóa thạch. Hiện nay, hơn một nửa lượng điện sản xuất vẫn đến từ nhiệt điện than. Trong khi năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời phát triển nhanh, nhưng chưa đủ để đáp ứng tốc độ tăng nhu cầu sử dụng điện của người dân và doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng; dân số đô thị tăng nhanh kéo theo nhu cầu xây dựng, tiêu thụ năng lượng, xử lý rác thải lớn. Hạ tầng môi trường chưa kịp thích ứng, tạo áp lực lớn lên hệ thống đô thị. Đặc biệt, chất thải rắn cũng là “nút thắt” như rác thải sinh hoạt vẫn xử lý bằng chôn lấp, công nghệ tái chế, phát điện từ rác còn khiêm tốn. Các bãi rác lớn như Nam Sơn (Hà Nội), Đa Phước (thành phố Hồ Chí Minh) nhiều lần quá tải, gây bức xúc dư luận.
Một nguyên nhân quan trọng khác là giao thông công cộng còn hạn chế. Theo đó, tỉ lệ người dân Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh sử dụng phương tiện công cộng chỉ khoảng 12 - 15%, thấp hơn nhiều so với các thành phố lớn trong khu vực Đông Nam Á như Bangkok hay Singapore. Cuối cùng, ý thức cộng đồng và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp chưa cao. Phân loại rác tại nguồn, sử dụng năng lượng tiết kiệm, chuyển sang phương tiện xanh chưa trở thành thói quen phổ biến của người dân.
Theo phân tích của PGS.TS Hoàng Anh Lê (Trường Đại học Khoa học Tự nhiên), nguyên nhân sâu xa là mô hình tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào khai thác tài nguyên, tiêu thụ năng lượng hóa thạch và phát triển theo chiều rộng. Nếu không thay đổi, Việt Nam sẽ phải trả giá đắt bằng môi trường và sức khỏe cộng đồng.
Hà Nội chú trọng đầu tư hệ thống giao thông công cộng nhằm giảm phát thải khí nhà kính.
Đồng bộ giải pháp giảm phát thải ròng
Trước những thách thức lớn về môi trường, sức khỏe cộng đồng, Việt Nam đã và đang triển khai hàng loạt giải pháp đồng bộ. Trong đó, nước ta ưu tiên chuyển dịch năng lượng điện. Theo quy hoạch điện VIII, đến năm 2030 năng lượng tái tạo sẽ chiếm 30,9 - 39,2% tổng công suất nguồn điện. Điều này đồng nghĩa với việc phải giảm dần sự phụ thuộc vào nhiệt điện than, đồng thời mở rộng điện gió, điện mặt trời và điện khí LNG.
Phát triển giao thông xanh cũng được coi là then chốt. Hiện nay, Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang khẩn trương hoàn thiện các tuyến metro, mở rộng hệ thống xe buýt điện và khuyến khích người dân dùng xe đạp công cộng. Ngoài ra, các hãng xe nội địa như VinFast, Dat Bike cũng có nhiều chính sách hỗ trợ và phát triển hệ thống xe điện.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Chính phủ đẩy mạnh áp dụng mô hình canh tác lúa “1 phải 5 giảm”, kỹ thuật tưới ngập khô xen kẽ giúp giảm phát thải metan đáng kể. Chăn nuôi tuần hoàn, tận dụng phụ phẩm làm khí sinh học cũng được khuyến khích mở rộng. Quản lý chất thải hiện đại là giải pháp không thể thiếu. Trong đó, từ năm 2023, Hà Nội đưa vào vận hành Nhà máy Điện rác Sóc Sơn với công suất 4.000 tấn/ngày, giúp giảm tỉ lệ chôn lấp, tận dụng rác phát điện.
Ngoài ra, thị trường carbon đang được xây dựng, dự kiến vận hành từ năm 2028. Đây là công cụ kinh tế quan trọng buộc các doanh nghiệp phát thải lớn phải tính toán bài bản để cắt giảm khí thải, hoặc trích lợi nhuận mua bán tín chỉ carbon.
Theo PGS.TS Hoàng Anh Lê, chuyển đổi sang năng lượng sạch là điều kiện tiên quyết, nhưng cần vốn đầu tư rất lớn. Do đó, phải vừa huy động nguồn lực quốc tế, vừa khuyến khích khu vực tư nhân tham gia thì nước ta mới có thể đạt được mục tiêu về giảm phát thải ròng.
Nhiều doanh nghiệp đã chủ động tham gia vào “cuộc chơi xanh”. Điển hình, Vinamilk triển khai mô hình “Trang trại xanh” giúp cắt giảm hàng chục nghìn tấn CO2 mỗi năm. EVN cam kết không xây thêm nhà máy nhiệt điện than mới từ nay đến 2030. Nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực xi măng, thép cũng đang thử nghiệm công nghệ sản xuất phát thải thấp...
Không chỉ khối doanh nghiệp, các bộ, ngành và chính quyền địa phương cũng thể hiện quyết tâm giảm phát thải khí nhà kính. Thành phố Hà Nội đang triển khai thí điểm vùng phát thải thấp tại 4 quận nội đô cũ. Việc rất quan trọng mà cần làm ngay là giải quyết ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, thành phố Hà Nội đang quyết tâm chuyển đổi năng lượng vận hành phương tiện sang điện. Tương tự, thành phố Hồ Chí Minh ưu tiên đầu tư cho giao thông công cộng, năng lượng tái tạo và công nghệ xử lý rác thải để giảm phát thải khí nhà kính. Còn Bộ Xây dựng đề ra 10 biện pháp và lộ trình thực hiện rất rõ ràng là đến năm 2030 giảm 5,9% phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường, tương ứng giảm 45,62 triệu tấn CO2 trong toàn giai đoạn.
Ở góc độ quốc tế, đại diện UNDP tại Việt Nam cho biết, Việt Nam đã thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ. Nhưng để đạt mục tiêu đưa phát thải ròng bằng 0 vào 2050, cần huy động nguồn vốn đầu tư khổng lồ cùng sự hợp tác chặt chẽ với cộng đồng quốc tế.
Hành trình hướng tới phát thải ròng bằng 0 là một chặng đường dài và nhiều thách thức. Song, đó cũng là cơ hội để Việt Nam tái cấu trúc mô hình phát triển theo hướng xanh, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu. Với quyết tâm của Chính phủ, sự đồng hành của doanh nghiệp và người dân, mục tiêu này không chỉ khả thi mà còn mở ra tương lai thịnh vượng và an toàn cho đất nước phát triển trong kỷ nguyên vươn mình.