Môi trường phải được xem là trụ cột ngang hàng với kinh tế và xã hội
Trong tuần làm việc thứ hai của Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, cử tri đặc biệt quan tâm đến nội dung thảo thuận kết quả giám sát chuyên đề về bảo vệ môi trường, bởi đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến sức khỏe con người, sự cân bằng sinh thái và phát triển bền vững.
Phóng viên Báo Nhà báo và Công luận đã trao đổi với PGS. TS. Nguyễn Ngọc Sơn, Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tại Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội xung quanh nội dung này.

ĐBQH Nguyễn Ngọc Sơn
+ Thưa ông, kết quả giám sát chuyên đề của Quốc hội cho thấy vẫn còn những tồn tại, hạn chế trong công tác bảo vệ môi trường. Theo ông, đâu là nguyên nhân chính và hướng khắc phục trong thời gian tới?
- Đúng như kết quả giám sát đã chỉ ra, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường hiện nay tương đối đầy đủ, nhưng khâu thực thi vẫn còn yếu. Ở nhiều địa phương, ô nhiễm vẫn xảy ra nghiêm trọng, đặc biệt là tại các khu công nghiệp, khu đô thị và vùng nông thôn ven đô.
Nguyên nhân một phần do tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường của chúng ta còn thấp so với mặt bằng chung của khu vực và thế giới. Việc điều chỉnh tiêu chuẩn này cần lộ trình phù hợp, tránh gây xáo trộn cho doanh nghiệp và nền kinh tế.
Bên cạnh đó, tổ chức thực hiện chưa đồng đều. Có địa phương làm rất tốt, xây dựng mô hình xử lý rác thải tiên tiến, song cũng có nơi buông lỏng quản lý, thậm chí để xảy ra vi phạm mà không xử lý nghiêm. Đối với các dự án liên vùng, sự phối hợp còn hạn chế, chưa có cơ chế điều phối hiệu quả.
Tôi cho rằng, Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) sẽ góp phần khắc phục tình trạng này khi mô hình chính quyền địa phương hai cấp được áp dụng, giúp tăng hiệu quả phối hợp giữa các địa phương. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là cần nâng cao trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong giám sát, kiểm tra.
Chế tài xử lý vi phạm cũng cần mạnh hơn. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp sẵn sàng nộp phạt để tiếp tục xả thải sai quy định. Cần coi hành vi vi phạm môi trường là vi phạm nghiêm trọng, xử lý đủ mạnh để răn đe, bảo đảm hiệu lực pháp luật và công bằng cho những doanh nghiệp tuân thủ đúng quy định.
+ Ông đánh giá như thế nào về việc thực hiện chuyển đổi xanh hiện nay và cần làm gì để thúc đẩy quá trình này thực chất hơn?
- Chuyển đổi xanh là xu thế toàn cầu và là con đường duy nhất để phát triển bền vững. Sau cam kết tại COP26, Việt Nam đặt mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Đó là cam kết lớn, đòi hỏi sự nỗ lực đồng bộ của cả Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.
Luật Bảo vệ môi trường cùng các văn bản liên quan đã phân cấp mạnh cho địa phương trong triển khai chuyển đổi xanh. Nhiều tỉnh, thành đã ban hành kế hoạch hành động cụ thể, thu hút đầu tư vào năng lượng tái tạo, sản xuất sạch hơn và phát triển kinh tế tuần hoàn.
Chẳng hạn, Bắc Ninh đã chủ động rà soát, dừng một số nhà máy trong khu công nghiệp để điều chỉnh hướng phát triển theo tiêu chí xanh. Đó là cách tiếp cận chủ động, thể hiện quyết tâm của địa phương trong thay đổi mô hình tăng trưởng.
Tuy nhiên, để chuyển đổi xanh đi vào thực chất, cần có cơ chế tài chính đủ mạnh. Hiện nay, vốn cho các dự án xanh còn hạn chế, trong khi chi phí đầu tư ban đầu rất cao. Nhà nước cần phát triển các công cụ như tín dụng xanh, trái phiếu xanh, đồng thời khuyến khích khu vực tư nhân tham gia bằng chính sách ưu đãi về thuế và đất đai.
Song song đó, nâng cao nhận thức xã hội cũng là điều cần thiết. Nếu người dân, doanh nghiệp hiểu rằng bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm mà còn mang lại lợi ích lâu dài, thì các chính sách chuyển đổi xanh mới được thực thi hiệu quả.
+ Để góp ý cho dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng, ông có kiến nghị gì về việc thể chế hóa vai trò của môi trường trong chiến lược phát triển đất nước giai đoạn mới?
- Tôi cho rằng, Đại hội XIV là dịp rất quan trọng để khẳng định rõ quan điểm phát triển bền vững, trong đó môi trường phải được xem là trụ cột ngang hàng với kinh tế và xã hội. Đây không chỉ là thông điệp chính trị, mà còn là cơ sở để định hình hệ thống chính sách cho cả giai đoạn 2026 - 2035 và tầm nhìn 2050.
Khi quan điểm này được thể chế hóa trong Văn kiện Đại hội, toàn bộ hệ thống pháp luật sẽ có cơ sở vững chắc để cụ thể hóa bằng nghị định, thông tư, kế hoạch hành động. Khi đó, Chính phủ và các địa phương có thể chủ động hơn trong việc lồng ghép mục tiêu môi trường vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm.
Một nhiệm vụ cấp bách là khắc phục các “khoảng trống pháp lý” trong quản lý môi trường, như kết quả giám sát của Quốc hội đã chỉ ra. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung 15 luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường cần sớm được thông qua để hoàn thiện hành lang pháp lý, tránh chồng chéo và tạo thuận lợi cho thực thi.
Bên cạnh đó, cần trao thêm quyền chủ động cho các đô thị lớn trong việc huy động nguồn lực xã hội hóa cho công tác bảo vệ môi trường, xử lý chất thải và phát triển không gian xanh. Khi gặp vướng mắc, địa phương cần kịp thời báo cáo để Trung ương tháo gỡ, bảo đảm cơ chế vận hành linh hoạt, hiệu quả.
Tôi cũng kiến nghị Chính phủ sớm ban hành Chiến lược quốc gia về phát triển xanh và kinh tế tuần hoàn đến năm 2050, xác định rõ trách nhiệm của từng bộ, ngành, địa phương. Khi đó, việc cân bằng giữa tăng trưởng, an sinh và bảo vệ hệ sinh thái mới thật sự bền vững.
+ Xin trân trọng cảm ơn ông!





