Thương đến cả một kiếp hoa
Đọc “Đàn bò lạc vào thành phố”, tôi cứ nhớ mãi “Sông Thương” của Phạm Hồng Nhật.
Con sông có cái tên ấn tượng ấy như mãi ở lại với anh, mở đầu bằng: “Một bên đục, một bên trong/ nghĩ mà thương hai nửa/ như mối tình dang dở/ Sông Thương đôi dòng” và kết thúc bằng: “Đói cơm rách áo đi biền biệt/ mơ ước mai về sông Thương xưa/ nơi ấy có tuổi thơ và em gái/ cả hai dòng trong, đục của đời tôi”.
Cả bài thơ là một khúc tâm sự nặng lòng và thương cảm trong hoàn cảnh cụ thể: Một bên đục, một bên trong, một con sông chảy luôn chia thành hai nửa, luôn chia hai dòng, như mối tình dang dở vậy. Dẫu vậy, thi nhân vẫn không dứt bỏ được, và dẫu phải “Đói cơm rách áo đi biền biệt” thì trong lòng thi nhân vẫn “Mơ ước mai về sông Thương xưa”.
Chấp nhận và không từ bỏ; coi quá khứ buồn đau như một phần máu thịt của mình; coi đời sống như một cái cớ để ngẫm nghĩ và luôn muốn vượt nó, không để nó nghiền nát... phải chăng đã làm nên xuất phát điểm thơ của Phạm Hồng Nhật?
Rồi trên cái “nền” của xuất phát điểm này, như nhiều người làm thơ khác, Phạm Hồng Nhật đã có ý thức nuôi nấng sự cô đơn cần thiết và đủ độ. Không thế, sao ông lại bộc bạch qua “Lục bát Hải Phòng”: “Qua Bến Bính ngược Xi Măng/ lẻ loi giữa phố Hải Phòng mình anh”. Không thế, sao ông lại bộc bạch qua “Uống rượu một mình”: “Vàng chìm, phận nổi, bèo trôi/ dễ đâu thiên hạ một người hiểu ta”. Không thế, sao ông lại bộc bạch qua “Kiếm tìm”: “Buồn thiu, tôi lại tìm tôi/ bao nhiêu khao khát thả trôi Tháp Rùa”. Không thế, sao có lúc ông tự nhận mình trong “Mỗi ngày” như thế này: “Anh người lữ khách đường xa/ bước chân lên dải Ngân Hà về quê...”.
Đó là những câu thơ tài hoa, có thân phận và mang “hàm lượng” một mình rất đáng kể.
Nhưng với Phạm Hồng Nhật, cô đơn không có nghĩa là co cụm lại, là yếm thế, là chỉ biết có mình và triệt tiêu chính bản thân mình. Trong nhiều bài thơ, ông đã hướng ra ngoài, cốt để thương cho hết những phận người quanh ông. Khi chứng kiến cuộc sống của một người mài dao thuê, ông triển khai bài thơ “Ông đá mài” có ý, có tứ thật sâu. Khi khởi hành thì “Đi cùn cả đất/ ở dưới gầm trời”; còn lúc ra về thì “Dao sắc đường trơn”. Khi nhìn “Các em nằm giữa bốn bề ngái ngủ”, ông thương cho giấc ngủ của trẻ lang thang: “Sẽ về đâu? Hỡi giấc ngủ không màn/ túi xách rỗng, áo quần táp túa/ vai dặt dẹo bao điều phải nhớ/ với con đường giông bão đuổi sau lưng”...
Khi bắt gặp dòng chữ “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” ở cổng lầu Vạn Lý Trường Thành, ông vẫn nhìn ra cái giá phải trả của nó. Bởi thế, ông mới thốt lên: “Hơn hai nghìn năm rồi/ lừng lững ngoằn ngoèo Trường Thành đá/ bao nhiêu nghìn cây số/ bấy trăm nghìn xác phơi”...
Bên cạnh đó, Phạm Hồng Nhật còn có những khoảnh khắc bồng bềnh chao đảo, thực hư hư thực thi sĩ đáng quý. Rõ nét nhất là trong “Uống rượu một mình” với hai cặp sáu - tám dưới đây: “Chung chiêng nướng nửa cuộc chơi/ Nửa đời còn lại, nửa vơi nửa chìm; Nâng ly tay chạm tay mình/ Lạnh lưng thì góp cho thành mùa đông”.
Trong bộn bề của những chi tiết thơ không yên, Phạm Hồng Nhật vẫn có những chi tiết thơ đẹp, như là những khoảnh khắc lắng xuống của riêng ông: “Cây gạo đỏ khách ngồi bên ngóng đợi/ như người tương tư người/ nhớ mà không dám gọi/ đò ơi” (“Tiếng gọi đò trên bến Hà Châu”) hay: “Phan Thiết như câu thơ bỏ lửng/ một miền ân ái của trời mây/ hoan lạc giữa núi rừng, sông nước/ bao đời lồng lộng lũy cát bay” (“Phan Thiết”).
Một người thương đến hoặc thương hết cả một kiếp hoa, cho dù hoa đã rụng, từ đó mở rộng nội hàm mà “thương cho bao số phận” như thế, thì quả là đáng trân quý thay!