Đồng bộ các chính sách phát triển nhân lực công nghệ cao
Bộ GD&ĐT đề nghị triển khai Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035, định hướng đến năm 2045, trong đó nhấn mạnh việc thực hiện đồng bộ các chính sách, thu hút và giữ chân đội ngũ giảng viên chất lượng cao.
USTH đầu tư hệ thống phòng thí nghiệm hiện đại phục vụ cho giảng dạy và nghiên cứu. Ảnh: NTCC |
Tạo môi trường để giữ chân nhân tài
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1002/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035, định hướng đến năm 2045. Để triển khai Đề án này, Bộ GD&ĐT yêu cầu các cơ sở giáo dục đại học rà soát, đổi mới chương trình đào tạo các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM).
Bộ cũng khuyến khích các trường áp dụng mô hình giáo dục hội tụ, chú trọng phát triển năng lực thực tiễn và tiếp cận liên ngành, đặc biệt đối với các chương trình đào tạo sau đại học trong các lĩnh vực công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ sinh học.
Bên cạnh đó, Bộ GD&ĐT đề nghị các cơ sở đào tạo ưu tiên đầu tư, nâng cấp hệ thống phòng thí nghiệm, công nghệ và học liệu phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ cao. Đồng thời, các trường cần xây dựng và thực hiện chính sách thu hút, duy trì ổn định đội ngũ giảng viên giỏi, áp dụng chính sách hỗ trợ dài hạn về điều kiện làm việc, sinh hoạt và nghiên cứu - nhất là đối với giảng viên trẻ có tiềm năng phát triển.
Theo GS.TS Chử Đức Trình - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội), điểm xuất phát của một hệ thống khoa học bền vững không chỉ nằm ở những phòng thí nghiệm hiện đại hay chính sách đầu tư mạnh mẽ, mà còn ở môi trường học thuật minh bạch, cởi mở và công bằng - nơi con người là trung tâm của sự phát triển.
Ông nhấn mạnh, yếu tố quan trọng nhất để xây dựng đội ngũ nhân lực nghiên cứu lâu dài chính là kiến tạo môi trường làm việc văn minh, rõ ràng, có tính cạnh tranh lành mạnh và khuyến khích sáng tạo. Đó là môi trường mà các nhà khoa học có thể toàn tâm toàn ý cống hiến cho nhà trường và cho khoa học, không bị chi phối bởi các yếu tố hành chính hay sự cạnh tranh thiếu tích cực.
GS.TS Chử Đức Trình cho biết, tại Trường Đại học Công nghệ, sự minh bạch không chỉ thể hiện trong quy chế, quy trình hoạt động, mà còn được cụ thể hóa trong cách thức ghi nhận, tôn vinh và sử dụng nhân tài. Mỗi giảng viên, nghiên cứu viên được tạo điều kiện phát huy thế mạnh cá nhân, đồng thời tham gia trực tiếp vào các hoạt động quản trị khoa học, tự chủ trong giảng dạy và nghiên cứu - yếu tố còn hiếm thấy ở nhiều cơ sở giáo dục hiện nay.
Theo GS.TS Chử Đức Trình, môi trường minh bạch là điều kiện cần, nhưng chưa đủ. Để giữ chân người tài, yếu tố tiên quyết là đảm bảo đời sống vật chất ổn định và thỏa đáng. Các giảng viên, nhà khoa học khó có thể toàn tâm cho công việc nếu điều kiện sinh hoạt chưa bảo đảm. Vì vậy, chính sách lương, học bổng và hỗ trợ tài chính là yếu tố then chốt quyết định việc họ gắn bó hay rời bỏ môi trường làm việc.
Giảng viên Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) hướng dẫn sinh viên thực hành. Ảnh: NTCC
“Chìa khóa” thu hút và phát huy đội ngũ giảng viên giỏi
Thời gian qua, Trường Đại học Công nghệ đã triển khai nhiều chính sách đột phá trong thu hút và giữ chân nhân lực khoa học, trong đó có cả học viên cao học và nghiên cứu sinh - lực lượng giảng viên, nhà khoa học tiềm năng của tương lai. Theo đó, nhà trường miễn học phí cho toàn bộ học viên cao học và nghiên cứu sinh theo học chương trình chính quy, đồng thời hỗ trợ kinh phí hàng tháng để đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu tại Hà Nội.
Không dừng lại ở hỗ trợ tài chính, nhà trường còn xây dựng mô hình gắn kết học viên sau đại học vào hoạt động nghiên cứu, giúp họ trở thành một phần của đội ngũ khoa học. Thông qua việc trực tiếp tham gia các đề tài cấp trường, bộ, Nhà nước, học viên cao học và nghiên cứu sinh không chỉ tích lũy kinh nghiệm thực tiễn, mà còn tạo ra những sản phẩm khoa học có giá trị ứng dụng cao, đóng góp vào thành tích chung của trường và các nhóm nghiên cứu.
Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (USTH) vừa triển khai Chương trình tuyển dụng nhân tài giai đoạn 2025 - 2030 với nhiều chính sách đãi ngộ hấp dẫn nhằm thu hút các nhà khoa học xuất sắc trong và ngoài nước.
Theo PGS.TS Trần Đình Phong - Phó Hiệu trưởng, chương trình đặt mục tiêu tuyển chọn 25 giảng viên - nghiên cứu viên xuất sắc trong giai đoạn 2025 - 2030, làm việc trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ, đặc biệt ưu tiên các ngành trí tuệ nhân tạo, an toàn thông tin, khoa học dữ liệu, kỹ thuật cơ điện tử, công nghệ vi mạch - bán dẫn, kỹ thuật hàng không và kỹ thuật ô tô.
Tiêu chí tuyển chọn tập trung vào năng lực nghiên cứu, chương trình nghiên cứu dự kiến, thành tích công bố quốc tế, khả năng huy động nguồn lực tài trợ, phát triển hợp tác quốc tế và cam kết gắn bó lâu dài với trường. Ứng viên tốt nghiệp từ các đại học hàng đầu thế giới, có kinh nghiệm giảng dạy hoặc hướng dẫn nghiên cứu sinh sẽ có lợi thế trong quá trình xét tuyển.
Một lớp học của Trường Đại học Anh Quốc Việt Nam. Ảnh: VNU
Ứng viên trúng tuyển được hưởng chế độ đãi ngộ cạnh tranh. Trường cam kết hỗ trợ gói nghiên cứu từ 1,5 đến 3 tỷ đồng trong ba năm đầu, tài trợ hai suất học bổng nghiên cứu sinh tiến sĩ toàn thời gian hoặc học bổng cotutelle cùng các đối tác quốc tế để xây dựng nhóm nghiên cứu. Giảng viên - nghiên cứu viên tài năng còn được ưu tiên tiếp cận nguồn tài trợ của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, sử dụng trang thiết bị, phòng thí nghiệm hiện có và có quyền đề xuất đầu tư thiết bị mới phục vụ nghiên cứu.
Đặc biệt, USTH trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đồng thời nhận được sự đồng hành của Liên minh gần 30 đại học và cơ quan nghiên cứu lớn của Pháp, tạo điều kiện thuận lợi để các giảng viên triển khai các dự án nghiên cứu trình độ cao, mở rộng mạng lưới hợp tác trong và ngoài nước, đóng góp vào sự phát triển của khoa học - công nghệ và đào tạo nhân lực chất lượng cao cho đất nước.
PGS.TS Trần Đình Phong cho biết, những năm qua, USTH đạt nhiều kết quả đáng tự hào như đạt chuẩn kiểm định HCERES (Pháp) giai đoạn 2023 - 2028, năng suất công bố quốc tế SCIE đạt 1,2 - 1,5 bài/giảng viên/năm. Hiện, 85% giảng viên của trường có trình độ tiến sĩ trở lên, phần lớn tốt nghiệp từ các đại học hàng đầu tại Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc… Từ nay đến năm 2030, nhà trường đặt mục tiêu nâng quy mô đội ngũ giảng viên lên 200 - 250 người.
Theo PGS.TS Trần Đình Phong, Chương trình tuyển dụng nhân tài giai đoạn 2025 - 2030 là “đòn bẩy chiến lược” giúp USTH thu hút và tạo cơ chế thuận lợi để các giảng viên - nghiên cứu viên xuất sắc phát huy năng lực và phát triển sự nghiệp trong môi trường chuyên nghiệp, nhân văn và hội nhập quốc tế. Những nhà khoa học tài năng này được kỳ vọng sẽ trở thành hạt nhân dẫn dắt các nhóm nghiên cứu, khởi xướng những hướng đi mới, nâng cao năng lực khoa học - công nghệ và vị thế của trường trên bản đồ giáo dục đại học Việt Nam.
Sinh viên Trường Đại học Thăng Long. Ảnh: NTCC
Yếu tố then chốt nâng cao chất lượng
Ở góc nhìn khác, đại biểu Quốc hội Hoàng Văn Cường (đoàn Hà Nội) nhấn mạnh, để các trường đại học có thể vươn lên ngang tầm quốc tế, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học phải được đặt ngang hàng với nhiệm vụ giảng dạy. Trên thế giới, phần lớn các giải thưởng Nobel đều xuất phát từ các trường đại học. Trong khi đó, ở Việt Nam, khoảng 90% số bài báo quốc tế được công bố bởi giảng viên đại học, nhưng kinh phí nghiên cứu các trường nhận được chỉ chiếm khoảng 7% tổng ngân sách khoa học quốc gia.
Theo ông, luật cần quy định rõ việc ưu tiên các đề tài nghiên cứu cho đội ngũ nhà giáo, đồng thời các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ cần được hưởng ưu đãi về thuế. Đây là con đường căn bản để thúc đẩy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Đề cập đến chính sách đãi ngộ đối với nhà giáo, ông Hoàng Văn Cường cho biết, đội ngũ này hiện chiếm khoảng 70% tổng số viên chức cả nước, song vẫn đang áp dụng bảng lương chung của hệ thống viên chức, điều này là không phù hợp.
Ông cho rằng, cần xây dựng bảng lương riêng cho đội ngũ nhà giáo, phản ánh đúng đặc thù nghề nghiệp và vị trí công việc, đồng thời bảo đảm thu nhập tương xứng với hao phí lao động để giáo viên, giảng viên có thể toàn tâm, toàn ý với nghề, không phải lo toan mưu sinh. Đại biểu cũng đề nghị bổ sung nhà giáo vào nhóm đối tượng được mua nhà ở xã hội, tương tự như sĩ quan trong quân đội, để họ yên tâm công tác lâu dài.
Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, hiện cả nước có gần 86 nghìn giảng viên đại học cơ hữu, trong đó hơn 70 nghìn người làm việc tại các cơ sở công lập. Đội ngũ này gồm gần 750 giáo sư, hơn 5.900 phó giáo sư, 30 nghìn tiến sĩ và gần 50 nghìn thạc sĩ. Những năm qua, số lượng giảng viên tăng nhanh, chất lượng từng bước nâng cao, một phần đã hội nhập với chuẩn quốc tế.
Tuy nhiên, theo ông Vũ Minh Đức - Cục trưởng Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục (Bộ GD&ĐT), so với yêu cầu đổi mới giáo dục đại học và xu thế toàn cầu hóa, thực trạng này còn nhiều hạn chế. Đội ngũ giảng viên chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển đồng thời ở cả hai phương diện: Giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, chế độ đãi ngộ hiện nay chưa đủ hấp dẫn để giữ chân người giỏi hoặc thu hút các nhà khoa học uy tín trong và ngoài nước.
Ông Đức cho biết, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách quan trọng nhằm phát triển đội ngũ giảng viên như chuẩn hóa trình độ, quy định chế độ làm việc, mở rộng đào tạo tiến sĩ, khuyến khích nghiên cứu khoa học, cải thiện lương - thu nhập và môi trường làm việc. Tuy nhiên, thực tế triển khai còn nhiều bất cập. Chính sách nghiên cứu khoa học bước đầu đã khẳng định đây là nhiệm vụ bắt buộc, đồng thời mở ra các quỹ và chương trình tài trợ từ cấp cơ sở đến cấp quốc gia.
Một số trường hiện đã có cơ chế thưởng cho giảng viên có công bố quốc tế, hỗ trợ tham dự hội thảo, song khó khăn lớn nhất vẫn là thiếu nguồn lực tài chính, kinh phí hạn chế và thủ tục hành chính phức tạp. Điều kiện làm việc được cải thiện khi nhiều trường đầu tư phòng thí nghiệm, phòng nghiên cứu, hỗ trợ nhà công vụ - đặc biệt cho giảng viên trẻ. Tuy nhiên, cơ chế thăng tiến và bổ nhiệm còn nặng thủ tục, thiếu linh hoạt, chưa gắn với chất lượng, khiến động lực nghề nghiệp bị suy giảm.
Chính sách thu hút nhân tài đã được một số trường và địa phương triển khai như: Trợ cấp ban đầu, hỗ trợ nhà ở, tạo điều kiện nghiên cứu hoặc xét tuyển đặc cách cho nhà khoa học đầu ngành, người có học hàm cao. Dẫu vậy, các chính sách này chưa đủ sức cạnh tranh với quốc tế, khiến Việt Nam khó thu hút và giữ chân chuyên gia giỏi.
Ông Vũ Minh Đức nhấn mạnh, để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số, chính sách đối với giảng viên đại học cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ. Trước hết, phải khắc phục bất cập trong chế độ làm việc, tiền lương, đãi ngộ, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên phát triển sự nghiệp.
Cùng đó, cần đầu tư mạnh mẽ cho đào tạo sau đại học, mở rộng cơ hội nghiên cứu, xây dựng quỹ phát triển khoa học - công nghệ thực chất, giảm thủ tục hành chính. Mặt khác, chính sách thu hút nhân tài phải linh hoạt, cạnh tranh và tương xứng với năng lực, đóng góp, để Việt Nam thực sự có thể giữ chân và phát huy đội ngũ giảng viên đại học chất lượng cao.
Theo ông Vũ Minh Đức, giữ chân và thu hút nhân tài là yếu tố then chốt quyết định chất lượng giáo dục đại học Việt Nam. Chỉ khi giảng viên được đãi ngộ thỏa đáng, có môi trường làm việc thuận lợi, họ mới thực sự toàn tâm, toàn ý với giảng dạy và nghiên cứu, từ đó góp phần nâng cao chất lượng và vị thế giáo dục đại học nước ta.